Dấu ấn xuất khẩu hàng hoá 10 năm 2011-2020: Từ nhập siêu sang xuất siêu

Dấu ấn xuất khẩu hàng hoá 10 năm 2011-2020: Từ nhập siêu sang xuất siêu

Dấu ấn xuất khẩu hàng hoá 10 năm 2011-2020: Từ nhập siêu sang xuất siêu

Việt Nam đã trải qua 10 năm tăng trưởng XK hàng hoá thần tốc, đạt được những kỳ tích ấn tượng. Tuy nhiên, chặng đường thực hiện .Dấu ấn xuất khẩu hàng hoá 10 năm 2011-2020: Từ nhập siêu sang xuất siêu. Chiến lược XNK hàng hoá thời kỳ 2011-2020 (Chiến lược) vẫn còn không ít hạn chế cần được nhìn nhận nghiêm túc để rút kinh nghiệm, xây dựng chiến lược cho giai đoạn tiếp theo.

Nói tới kết quả đạt được trong Dấu ấn xuất khẩu hàng hoá, XNK hàng hoá thời kỳ 2011-2020, rất nhiều điểm sáng có thể đề cập tới. Tuy nhiên, điểm nổi bật hơn cả lột tả sự khác biệt hoàn toàn so với giai đoạn trước chính là màn xoay chuyển ngoạn mục cán cân thương mại từ nhập siêu triền miên sang xuất siêu liên tục.

Trao đổi với phóng viên Tạp chí Hải quan, TS. Lê Quốc Phương, nguyên Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại (Bộ Công Thương) phân tích: “Tính từ năm 1986 đến năm 2011, Việt Nam là quốc gia nhập siêu kinh niên. Thậm chí, giai đoạn 2007-2011, nhập siêu của Việt Nam đều vượt 10 tỷ USD/năm. Đáng chú ý, năm 2008 Việt Nam nhập siêu kỷ lục tới gần 20 tỷ USD. Sau đó, Việt Nam đã chuyển sang xuất siêu liên tục từ năm 2012 (trừ năm 2015). Đặc biệt, xuất siêu của Việt Nam năm sau tăng cao hơn năm trước, vượt xa mục tiêu Chiến lược đề ra là tiến tới cân bằng cán cân thương mại vào năm 2020 và phấn đấu xuất siêu từ năm 2021”.

Vị chuyên gia này nhấn mạnh thêm: “Trong bối cảnh khá khó khăn với những “cú sốc” lớn từ bên ngoài và cả khó khăn nội tại, XNK 10 năm qua vẫn đạt kết quả cao là điều rất đáng ghi nhận. XK nhiều nhóm hàng hoá của Việt Nam thậm chí đã thuộc “top” hàng đầu thế giới như: Gạo, cà phê, hạt điều, thuỷ sản, dệt may, da giày…”.

Tương tự, PGS.TS Phạm Tất Thắng, Nghiên cứu viên cao cấp của Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương (Bộ Công Thương) khi trao đổi với phóng viên Tạp chí Hải quan cũng không ít lần đánh giá cao những kết quả XNK đạt được trong 10 năm qua. Vị này nhấn mạnh vào góc độ: “Số lượng mặt hàng đạt kim ngạch XK 1 tỷ USD/năm đã tăng lên đáng kể. Điều này thể hiện Việt Nam đã tập trung vào một số mặt hàng chủ lực chứ không chỉ dàn trải theo diện rộng. Bên cạnh đó, hình thức XK có nhiều thay đổi, xúc tiến thương mại có trọng điểm, xây dựng chuỗi giá trị gia tăng tốt và đưa được hàng hoá vào các hệ thống phân phối của nước ngoài”.

Nhìn lại toàn cảnh quá trình thực hiện Chiến lược, Bộ Công Thương thông tin, kết quả thu về vượt nhiều mục tiêu đặt ra, điển hình như chỉ tiêu về quy mô và tốc độ tăng trưởng kim ngạch XNK, giảm nhập siêu. Mục tiêu tổng quát đề ra trong Chiến lược là: “Tổng kim ngạch XK hàng hóa đến năm 2020 tăng gấp trên 3 lần năm 2010, bình quân đầu người đạt trên 2.000 USD, cán cân thương mại được cân bằng”. Trên thực tế thực hiện, kim ngạch XK hàng hóa năm 2020 đạt 282.655 triệu USD, tăng 3,9 lần so với năm 2010 (72.236 triệu USD). Kim ngạch XK hàng hóa bình quân đầu người tăng nhanh, từ 822 USD năm 2010 lên 2.891 USD năm 2020 (tăng 3,5 lần so với năm 2010). Cán cân thương mại đã chuyển hẳn sang trạng thái thặng dư từ năm 2016, với mức xuất siêu 19,9 tỷ USD năm 2020.

Bên cạnh đó, đại diện Bộ Công Thương cũng nhấn mạnh, cơ cấu hàng hóa XK có những chuyển dịch tích cực, tăng tỷ trọng hàng chế biến chế tạo, giảm tỷ trọng hàng nguyên liệu thô sơ chế. Các mặt hàng chủ lực có quy mô XK lớn như dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, máy móc, thiết bị phụ tùng tiếp tục duy trì được mức tăng trưởng ổn định, đồng thời đã phát triển thêm nhiều mặt hàng XK mới thuộc nhóm công nghệ như điện thoại di động, máy vi tính, thiết bị điện tử…

Khẳng định kết quả XNK đạt được trong giai đoạn 2011-2020 rất lớn, Dấu ấn xuất khẩu hàng hoá, tuy nhiên chuyên gia Lê Quốc Phương cũng cho rằng: “Tất cả chỉ là bề nổi. Nhìn sâu hơn dưới bề nổi đó có rất nhiều vấn đề”.

Vị này phân tích, các thành tích XK đạt được mới về mặt số lượng, chất lượng tăng trưởng còn thấp. Hiện nay, giá trị gia tăng XK của Việt Nam thấp hơn nhiều nước khu vực ASEAN như: Singapore, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Philippines. Bên cạnh đó, cơ cấu XK chuyển dịch nhanh theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo nhưng hầu hết sản phẩm đều là gia công, lắp ráp, từ quần áo, giày dép, túi xách cho đến điện thoại di động, ti vi, máy tính, máy ảnh, ô tô, xe máy… “Lợi ích Việt Nam được hưởng từ XK không bao nhiêu, chủ yếu là công của người lao động đơn giản, tay nghề thấp, tiền cho thuê đất, nhà xưởng, bán tài nguyên hoặc dịch vụ cho DN nước ngoài”, ông Lê Quốc Phương nói.

Nhiều chuyên gia kinh tế đều có chung nhận định, thành tích XK của Việt Nam ấn tượng nhưng lại phụ thuộc quá nhiều vào khối DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Vai trò của DN trong nước ngày càng lép vế. Tỷ trọng DN FDI trong XK năm 2010 là 54%, đến năm 2020 là 72% và 9 tháng năm 2021 con số này là 74%. Đồng thời, tỷ trọng của DN Việt đã giảm từ 46% năm 2010 xuống 28% năm 2020.

“Năng lực cạnh tranh và khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của DN Việt còn thấp. Đây là tồn tại lớn nhất, là gốc rễ của vấn đề. Vấn đề này đã được cải thiện trong 10 năm qua nhưng còn xa mới đạt được yêu cầu, kỳ vọng”, ông Lê Quốc Phương nhấn mạnh.

Bộ Công Thương cũng đánh giá những hạn chế, yếu kém nổi cộm trong XNK 10 năm qua chính là tăng trưởng XK đạt tốc độ cao nhưng chưa thật sự bền vững trong trung và dài hạn, tiềm ẩn nhiều rủi ro có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng XK ổn định. Những rủi ro đó đến từ sự mất cân đối trong cán cân thương mại với các thị trường; sự mất cân đối về thị trường XK; sự mất cân đối về cơ cấu DN XK và sự mất cân đối về cơ cấu hàng hóa XK”.

Riêng ở góc độ XK quá lệ thuộc khối FDI, đại diện Bộ Công Thương nhận định: “Việc tăng XK của khu vực FDI càng cho thấy sức cạnh tranh yếu của khu vực kinh tế trong nước. Lệ thuộc quá mức vào FDI cũng tiềm ẩn nguy cơ đối với XK, đặc biệt là trong điều kiện có biến động lớn từ bên ngoài”.

Thời gian tới, để thúc đẩy tăng trưởng XK hàng hoá nhanh, xuất siêu bền vững, chuyên gia Lê Quốc Phương cho rằng, mấu chốt là cần chuyển từ tăng trưởng XK về lượng sang chất; tập trung nâng cao giá trị gia tăng, chuyển từ nền kinh tế gia công, XK sang nền kinh tế sản xuất, XK; XK hàng công nghệ có tỷ lệ nội địa hoá cao.

“Chỗ dựa chủ yếu để tăng trưởng XK nhanh, bền vững là DN trong nước. Giai đoạn trước mắt cần phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ, giúp tăng tỷ lệ nội địa hoá. Bên cạnh đó, phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp khác như: Tiếp tục đẩy mạnh xúc tiến thương mại, đa dạng hoá thị trường XK, tận dụng tốt các FTA, cải cách thủ tục hành chính và cải thiện môi trường kinh doanh để tạo thuận lợi hơn nữa cho DN…”, chuyên gia Lê Quốc Phương nói.

Nhìn nhận ở tầm vĩ mô hơn, theo TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), thời gian qua, kim ngạch XNK của Việt Nam tăng nhanh, hiện đã ở mức cao làm cho độ mở của nền kinh tế cũng gia tăng tương ứng (trên 200% và đang có xu hướng tăng nhanh). Độ mở cửa lớn, phụ thuộc lớn và bất cân xứng vào một số ít đối tác, nhất là Trung Quốc và Hoa Kỳ đang và sẽ tạo thêm nhiều rủi ro phức tạp, làm cho nền kinh tế có sức chống chịu kém, dễ bị tổn thương trước tác các động bất lợi từ bên ngoài.

Để khắc phục các điểm bất lợi của thực trạng mở cửa quá mức nền kinh tế, thể chế kinh tế phải cải cách và thay đổi cơ bản theo hướng khuyến khích, thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh, bền vững khu vực kinh tế trong nước, trước hết là kinh tế tư nhân; đồng thời thu hút được FDI (quy mô lớn) trực tiếp từ Hoa Kỳ và EU.

Nguồn: Hải Quan Online

DaNang Logistics hy vọng bài viết hữu ích cho bạn!